Datum Là Gì – Datum Nghĩa Là Gì Trong Tiếng Đức
Mình không phải là dân cơ khí nhưng đang phải đọc bản vẽ cơ khí. Mình không hiểu rõ về datum lắm(chả hiểu dịch thế nào). Nhưng mình hiểu như thế này: Vùng dung sai hình học sẽ được chiếu xuống các mặt phẳng datum,cần mặt nào ta ghi mặt đó vào dung sai hình học không biết có đúng không
Đang xem: Datum là gì
Vùng dung sai hình học sẽ được chiếu xuống các mặt phẳng datum,cần mặt nào ta ghi mặt đó vào dung sai hình học không biết có đúng không
Xem thêm: Icon Coin (Icx) Là Gì? Toàn Tập Về Tiền Điện Tử Icx Coin Đặc Biệt Của Hàn Quốc
Chào,Về cơ bản bạn hiểu không chính xác rồi, hy vọng quyển sách này có thể giúp bạn. Fundamentals of Geometric Dimensioning and Tolerancing, Alex Krulikowski (có thể tìm thấy ở trang scribd với từ khoá “GD-T”).”Datum” hay “GD&T” liên quan đến người thiết kế, bác thợ gia công và anh chàng kiểm tra sản phẩm, nên khi tìm hiểu bạn chịu khó nhìn từ nhiều góc độ thì sẽ có kết quả. PS:Mình cũng không phải là dân cơ khí, lại càng nên không thể giúp bạn về dịch thuật.Thôi chịu khó đọc sách nhé, nếu thấy phần nào không thông suốt thì các bác phunutiepthi.vn có thể trao đổi cụ thể hơn.Và hãy nêu rõ câu hỏi, nếu được kèm theo bản vẽ nhé.
Xem thêm: Nguy Hiểm Từ Tác Hại Của Rượu Bia Đối Với Nam Giới, Uống Nhiều Rượu, Bia
Ðề: Datum và các vấn đề.Geometric Dimensioning and Tolerancing , viết tắt là GD& T, là một ký hiệu ngôn ngữ cơ học áp dụng cho các bản vẽ cơ khí 2 hay 3 chiều nhằm xác định những khiếm khuyết cho phép trong việc kiểm soát đặc điểm của mỗi cơ phận. Các loại kiểm soát hình học của mỗi đặc điểm bao gồm định dạng (form or shape), kích cỡ (size or feature of size), định hướng (orientation), và định vị (location) liên kết hỗ tương với các tọa vị chính, phụ và thứ (primary, secondary and tertiary datum) được chỉ định tùy theo chức năng ráp nối (mating) trên cơ phận đó. Nội trong GD & T, có vài dung sai có nhiều chức năng hơn là một loại kiểm soát hình học ví dụ như dung sai định hướng ks luôn ds định hình và ds định vị ks cả định hình lẫn định hướng của một trục hay một mặt phẳng trung tuyến. Cũng như ds biên tuyến (profile) của bề mặt ks ds định dạng và kích cỡ nếu những đặc tính đó hiện diện cũng như ks luôn ds định dạng, định vị nếu nó liên hệ đến những đặc điểm tọa độ tiết diện (datum features) bị khống chế bởi ds biên tuyến.GD & T được biên soạn bắt đầu vào giữa thập niên 1940. Một khi nó khám phá rằng dung sai trực tiếp đo lường hoặc chênh lệch ± đã không hoàn toàn dự đoán có hay không một cấu kiện phát huy tất cả chức năng của nó. Có vài hệ lụy với dung sai cơ bản ± (plus and minus) như:1. Nó không có hệ thống tọa độ (no explicit coordinate system) rõ ràng, cũng như khung đối chiếu để định vị đặc điểm đo lường và hướng liên hệ đến.2. Trong việc ks vị trí hay chiều hướng sẽ không có khu vực dung sai (tolerance zone) mà là khoảng cách từ điểm này đến điểm khác. Theo tiêu chuẩn GD & T, ASME Y 14.5 định nghĩa biên tuyến (boundaries) cho độ chênh lệch plus or minus về dung sai kích cỡ và một vài ds tương tự khác được dùng như là những dung sai bán kính (radius tol.) và dung sai độ sâu nhưng không có định nghĩa về tuyến dung sai khi ks vị trí hoặc định hướng nó với một dung sai đo lường trực tiếp. Cũng nên biết rằng tolerance zone được định nghĩa như hai đường song song hoặc vòng tròn đồng tâm nơi mà khoảng cách được xác định bằng bề rộng hay đường kính của hình cầu hay tròn được dùng để tạo nên khung bao bề mặt của nó.3. DS trực tiếp có những đặc điểm không rõ ràng cho những ứng dụng trực tiếp đến một vài đặc điểm chia sẽ chung một trung điểm.4. Một dung sai đo lường trực tiếp cung cấp chỉ mỗi một chức năng hay công cụ mà không có khả năng ứng dụng cho những chức năng phức tạp yêu cầu rõ ràng từng đặc điểm dung sai hay định hướng một khung mô hình liên kết của những đặc điểm đó.5. Dung sai cho góc hoặc bán kính chỉ có thể áp dụng trên mặt cắt hai chiều (cross sections) của một đặc điểm đó vì rằng vùng dung sai của nó có bề rộng bằng không tại một hay 2 vị trí của nó so sánh với gd& t là 3 chiều nên có bề rộng hoặc sâu. Một cách nào đó chúng cũng không cung cấp một sự kiểm soát đặc điểm nào đến bất cứ một trung điểm.GD & T được phát triển để giải quyết những mơ hồ và khả năng có giới hạn của ± dung sai. Hiện nay theo Tiêu chuẩn ASME của Mỹ đã đang phát huy tốt nhất nhằm loại trừ những khúc mắc tối nghĩa từ những khuyết điểm hình học căn bản. So với ASME, dung sai trực tiếp chỉ có những xác định chức năng cho từng đặc điểm như kích cỡ, bán kính hoặc ks độ sâu trong khi đó ASME chia thành định dạng, định hình và định vị yêu cầu nhiều tiêu chuẩn GD & T tinh vi hơn.Nếu không có tiêu chuẩn GD& T như ASME Y14.5-2009 liên quan trên từng bản vẽ và nếu không ứng dụng đúng những tiêu chuẩn GD &T trong việc ks từng đặc tính của mỗi đặc điểm cơ phận sẽ có kết quả là những hướng dẫn mơ hồ không có căn cứ cụ thể cho việc kiểm tra thử nghiệm (inspection) cũng như cho việc sản xuất . Chúng ta cũng biết không thể có một cơ phận gia công tuyệt đối hoàn hảo ngay cả khi mỗi kỹ sư thiết kế nó trên CAD vốn như là một công cụ hoàn hảo cho việc thiết kế cơ khí cho nên việc ks số lượng hoặc tỷ lệ khuyết điểm dung sai cho phép trên mỗi cơ phận phải thật nghiêm ngặt (rigorous) và phải theo những tiêu chuẩn rõ ràng để chúng có thể phát huy hết những chứa năng đúng như mẫu thiết kế quy định. Những khắc khe cần thiết và một loạt các công thức đa dạng cũng như các loại công cụ đều được biểu thị bằng những ký hiệu ngôn ngữ GD & T (có cả thảy 14 ký hiệu chia đều trong 5 khu vực như Định dạng (Form), Định hướng (Orientation), Biên tuyến (Profile), Tiện tuyến (Run Out) và Định Vị (Location) với các đặc điểm phụ như điều kiện tối đa / tối thiểu hóa vật liệu (MMC/LMC) và bất tác động kích cỡ ds (RFS). ( Tôi đang biên soạn chi tiết cách áp dụng cũng như chức năng của từng ký hiệu và tọa vị từ căn bản đến nâng cao thật dễ hiểu cho tất cả các khâu từ thiết kế đến sản xuất.) GD & T phần lớn được ứng dụng như là một công cụ ks rủi ro bằng vào việc bao gồm các ghi chú áp dụng dung sai như trên một biên dạng (surface profile) hay biên tuyến (line profile) của một bề mặt đến với bất cứ đặt điểm nào trên bề mặt cơ phận đó nơi tập trung nhiều đặt điểm quan trọng cần inspect hơn là tại những khu vực khác.GD & T có thể không cần thiết nếu nhà sản xuất có quy mô nhỏ lẻ hoặc nếu quá trình sản xuất được ks nghiêm ngặt. Nhiều sản phẩm sản xuất hàng loạt đã chứng minh tốt chức năng hoạt động thì có thể không cần đến GD & T. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất nếu thiếu vắng quy trình kiểm tra cũng như tiêu chuẩn trong việc sản xuất thiếu rõ ràng và kết quà là có sai sót được phát hiện trong sản phẩm thì nhà sản xuất có thể bị xem như là thiếu uy tín và thô sơ (flat-footed). Thiếu sót những tiêu chuẩn dữ liệu cho kiểm tra ks quá trình sản xuất trước cũng như sau đó sẽ không còn cách nào để xác định cơ phận nào khiếm khuyết nếu trong quá trình lắp ráp bị lỗi. Nhiều công ty thích thay đổi qua những nhà cung ứng nào ứng dụng nhiều tiêu chuẩn khắc khe như GD& T trong sản phẩm, thiết bị mang tính đặc thù của họ vốn dành cho những khách hàng riêng biệt yêu cầu chất lượng cao. Sản xuất một sản phẩm chất lượng cao kết quả sẽ khó đạt được nếu không có một quá trình kiểm tra nghiêm ngặt để chỉ ra những khuyết đểm hình học trong từng cơ phận nối kết với các chức năng khác. Tóm lại GD & T cần thiết khi cơ phận có tính phức tạp và chính xác cao, số lượng sản xuất lớn hay có tính phân bổ (dispersion) rộng trên nhiều địa hạt sản xuất . GD & T chủ yếu dành riêng cho quá trình thiết kế, chế tạo cơ khí vì thế những người trực tiếp liên quan trong quá trình gia công và những bộ phận kế tiếp phải thông hiểu nó thật rõ ràng trước khi tiến hành. Có người nghĩ GD & T khó và cũng có người cho nó là dễ dàng. Thật ra đáp số của nó tùy thuộc vào mức thông hiểu và cách giảng dạy liên quan đến tất cả quy trình ks hình học và cách áp dụng phù hợp trong việc sản xuất và kiểm tra của từng bộ phận một cách hợp lý nhất. Nền tảng cho sự thành công của một sản phẩm hay một công ty phải bắt đầu từ bản vẽ sơ khởi. Nó phải được tái thẩm định (review) ngay cả trước khi bản vẽ được chính thức tạo nên. Điều đó làm cho mọi sự được thông suốt và tất cả những khuyết điểm gây khó khăn cho sản xuất phải được phát hiện cũng như những thành tố vật liệu, hình dạng thích hợp tương tác với lực tác động phải được phân tích rõ ràng để mọi thứ đều đúng ngay từ lúc khởi đầu (get things right the first time). GD & T cũng đồng thời cung cấp nhiều cách để cho phép các nhà chế tạo nới rộng dung sai, cho các nhà sản xuất nhiều khoảng trống hơn trong việc gia công trong khi vẫn bảo đảm chức năng của cơ phận. Để đạt được điều đó một cách chính xác cũng như giới hạn tối đa các dung sai trong bản vẽ ,kết quả và phúc lợi sẽ đạt được mỹ mãn cho công ty. Huy Nguyễn- Senior Mechanical Designer in Virginia