Chế Độ Bản Vị Vàng Là Gì ? Bản Vị Vàng, Kim Bản Vị Là Gì

Chế độ bản vị vàng là hệ thống tiền tệ mà vàng được sử dụng làm cơ sở cho cung ứng tiền tệ từng được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới từ cuối thế kỷ 19 đến những năm 1930 nhưng đã không còn phù hợp trong nền kinh tế thế giới hiện đại.Bạn đang xem: Bản vị vàng là gì

Từ năm 600 trước Công nguyên và trong suốt chiều dài lịch sử thế giới, vàng luôn được xem là dạng tiền tệ lưu hành cũng là thước đo giá trị bậc nhất trong các loại tài sản. Từ thế kỷ 19 đến những năm 30 của thế kỷ trước, một chế độ tiền tệ có tên gọi bản vị vàng hay kim bản vị (gold standard) từng được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới trong đó mọi giao dịch và giao thương trong thời điểm đó đều được trao đổi bằng vàng.

Đang xem: Bản vị vàng là gì

Tuy nhiên đến nay, hầu như không một quốc gia nào trên thế giới còn áp dụng bản vị vàng và chế độ tiền tệ này có chăng chỉ còn được áp dụng ở một số định chế tài chính tư nhân.

Vậy sau đây, phunutiepthi.vn sẽ cùng bạn tìm hiểu về khái niệm Bản vị vàng, những tác động của chế độ này đến hệ thống tiền tệ, hạn chế của nó cũng như đâu là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của kim bản vị.

1. Tổng quan về chế độ bản vị vàng

1.1 Khái niệm bản vị vàng – Gold standard

Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà trong đó vàng được coi là cơ sở cho cung ứng tiền tệ của một quốc gia hay giá trị tiền tệ của quốc gia được liên kết trực tiếp với vàng và vàng được sử dụng để thanh toán các khoản thâm hụt trong cán cân thương mại quốc tế và cán cân thanh toán. Hiểu một cách nôm na, chế độ bản vị vàng là chế độ công nhận chức năng tiền tệ của vàng và hơn nữa trong chế độ này hàm lượng vàng chính là tiêu chuẩn ấn định cho các giá trị khác.

Trong quá trình được áp dụng ở các quốc gia, hệ thống tiền tệ này phát triển dưới hình thức của 3 chế độ khác nhau: bản vị tiền vàng, bản vị vàng thỏi và bản vị hối đoái vàng.

Trong chế độ tiền tệ này, các quốc gia đã đồng ý chuyển đổi tiền giấy thành một lượng vàng cố định và tiền dù ở dưới hình thức nào (đúc bằng vàng hay in trên giấy) thì người sở hữu tiền luôn có một quyền quan trọng là yêu cầu người phát hành tiền đổi tiền thành vàng theo tỉ lệ đã cam kết.

Cũng dưới chế độ bản vị vàng, phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng và tỷ giá hối đoái được cố định một cách “cứng nhắc” dựa trên hàm lượng vàng của các đồng tiền.

Nếu một quốc gia theo chế độ bản vị vàng, tiền xu vàng lưu thông và tiền giấy được đổi ra vàng trực tiếp theo giá thị trường (chính phủ không thể bắt buộc), tiền giấy giống như một tờ séc cho phép người cầm giữ nó quyền sở hữu một lượng vàng nhất định đang được quản lý bởi người phát hành tờ tiền đó.

Tham khảo ngay  Gh/S Bitcoin Là Gì ? Sự Tương Quan Giữa Hash Rate Và Bitcoin Hashrate Là Gì

Khi đó, những quốc gia theo chế độ bản vị vàng sẽ phải tuân thủ các quy tắc bao gồm:

Ấn định cố định giá trị đồng tiền của mình với vàng, việc mua và bán vàng tại mức giá đã qui định không bị hạn chế.Các hoạt động xuất nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt động.Tiền do ngân hàng trung ương phát hành được bảo đảm 100% bằng vàng.

Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng hệ thống tiền tệ này có thể kìm hãm lạm phát gây ra do lượng tiền mặt tăng lên cũng như đề kháng được sự bành trướng tín dụng và nợ nần – có thể gây ra bởi chế độ tiền luật định.

1.2 Lịch sử phát triển của chế độ bản vị vàng

*

Với những thuộc tính như bền vững, ổn định về lượng sẵn có, giá trị nội tại không bị biến động vàng là dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng được toàn bộ các yêu cầu cơ bản và quan trọng để trở thành thước đo giá trị trong giao thương. Tuy nhiên trên thực tế, trong phần lớn lịch sử xã hội loài người, bạc mới là phương tiện lưu thông chủ yếu và là kim loại quan trọng đóng vai trò tiền tệ.

Tuy nhiên, chế độ song bản vị (Bimetallic Standard) khi cả vàng và bạc được sử dụng làm tiền tệ lưu hành song song nhau đã gây ra những xáo trộn trong đời sống kinh tế và lưu thông tiền tệ do nạn đầu cơ tiền vàng hay tiền bạc, do vậy đã kìm hãm sự phát triển nhanh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dù vậy trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản khi mà lượng vàng khai thác chưa thể đáp ứng yêu cầu lưu thông tiền tệ bằng vàng nên chưa đủ khách quan để thực hiện chế độ bản vị vàng.

Mãi tới thế kỷ 18 sang thế kỷ 19, do công nghiệp khai thác vàng phát triển các nước mới đủ điều kiện chuyển từ chế độ hai bản vị sang chế độ bản vị vàng. Khi đó, Vương quốc Anh là nước có nền kinh tế và thương mại phát triển nhất thế giới đã trở thành quốc gia đầu tiên thực hiện chế độ bản vị vàng sau khi trải qua một thời kỳ chuyển tiếp lâu dài từ năm 1717 đến 1821. Mặc dụ pháp lệnh của nhà nước Anh công bố thực hiện chế độ bản vị vàng vào năm 1816 nhưng mãi tới năm 1821 mới chính thức được thi hành.

Trong khi đó ở Mỹ, chế độ bản vị vàng thực tế được áp dụng từ năm 1834 và Đạo luật Bản vị vàng được đưa ra năm 1900 đã xác định vàng là kim loại duy nhất để quy đổi tiền giấy và giá trị của vàng được quy đổi ở mức 20,67 USD/ounce.

Xem thêm: Bit C Cex – Bitcoin & Cryptocurrency Exchange

2. Lợi ích của bản vị vàng đối với hệ thống tiền tệ

Trong khi chế độ tiền pháp định hiện hành tại các quốc gia có nguy cơ lạm phát rất cao thì ngược lại chế độ bản vị vàng có khả năng kiềm chế lạm phát. Vậy nguyên nhân là gì ? Nguyên nhân đầu tiên là vàng là tài sản có hạn. Sau hàng ngàn năm khai thác vàng, số lượng vàng do con người sở hữu chỉ có khoảng 125 nghìn tấn. Điều này đồng nghĩa với việc, con người dù muốn cũng không thể “in” vàng hàng loạt dẫn đến lạm phát.

Tham khảo ngay  Cao Su Nbr Là Gì ? Tính Chất Của Cao Su Nitrile Cao Su Nitrile Là Gì

Ngoài ra, nguyên nhân thứ haivàng cũng là vật chất có thể được đổi ra bất kỳ đồng tiền nào và được chấp nhận ở mọi quốc gia trên thế giới. Có nhiều luận định xem vàng là vật bảo đảm trước sự “phiêu lưu” của các ngân hàng trung ương trong chính sách tiền tệ và là phương tiện chống rủi ro biến động tiền tệ.

Theo lý thuyết, sự cam kết duy trì khả năng chuyển đổi tiền ra vàng một cách chặt chẽ hạn chế quá trình tạo ra tín dụng. Khác với chế độ tiền luật định, đồng tiền khi được đảm bảo bằng vàng sẽ không cho phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy. Ngoài ra, bản vị vàng tạo ra sự vững chắc của thương mại quốc tế do nó cung cấp một cơ cấu cố định tỷ giá tiền tệ.

Theo chế độ bản vị vàng cổ điển quốc tế, những biến động về giá ở một quốc gia sẽ được điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ thông qua cơ chế tự cân bằng thanh toán – cơ chế dòng chảy giá cả-bản kim (tiền xu vàng). Cơ cấu này như sau:

Ban đầu khi giá một loại hàng hóa giảm xuống nhờ nguồn cung tăng, tăng hiệu quả vốn, giảm giá đầu vào hoặc do cạnh tranh, người mua sẽ nghiêng về hàng hóa đó nhiều hơn những hàng hóa khác. Nhờ sự ổn định tỷ giá tiền-vàng, người tiêu dùng ở các nước khác sẽ mua hàng hóa được định giá thấp nhất và do đó vàng sẽ chảy về các nước có nền kinh tế hiệu quả nhất.Đồng thời, lượng tiền lưu hành ở các nền kinh tế kém hiệu quả bị giảm đi, vì vậy giá cả ở các nước này giảm xuống cho đến khi sự cân bằng được khôi phục.

Khi đó với mục đích ngăn cản luồng vàng chảy đi, các ngân hàng trung ương sẽ chống đỡ bằng cách tăng tỷ lệ lãi suất để nhanh chóng đưa giá cả trở lại mức cân bằng quốc tế. Về mặt lý thuyết, chừng nào còn duy trì bản vị vàng thì chừng đó hạn chế được lạm phát cao hoặc giảm phát ngoài tầm kiểm soát.

3. Những hạn chế của chế độ bản vị vàng

*

3.1 Lượng vàng trên thế giới có quá ít so với nhu cầu

Về mặt lý luận, chỉ có chế độ kim bản vị đầy đủ – chế độ chỉ sử dụng 100% vàng cho lưu thông kinh tế, không sử dụng tiền giấy hoặc tiền xu mới có khả năng ngăn ngừa lạm phát hoàn toàn. Tuy nhiên điều này gần như bất khả thi vì số lượng của vàng là hữu hạn và trữ lượng vàng của Trái đất gần như cạn kiệt và không thể đảm bảo hoạt động kinh tế toàn cầu trừ khi giá vàng được nâng lên vài chục hoặc vài trăm lần.

3.2 Chế độ kim bản vị có thể gây ra giảm phát

Do giá trị tiền tệ được gắn liền với hàm lượng vàng nên những yếu tố tự do còn lại để điều tiết thị trường vốn-tiền tệ bao gồm: (1) tự do di chuyển luồng vốn và (2) chính sách tài chính, tiền tệ. Lý do vì sao phần lớn nhà kinh tế học không ủng hộ bản vị vàng chính là mối quan ngại hai yếu tố trên không đủ để đối phó với suy thoái hoặc giảm phát lớn.

3.3 Gây khó khăn trong việc phục hồi kinh tế trong khủng hoảng

*

John Maynard Keynes, một trong những nhà kinh tế học phản đối mạnh mẽ chế độ bản vị vàng đã nhấn mạnh: sự cứng nhắc của vàng sẽ khiến các nền kinh tế thiếu sự linh hoạt. Ngoài ra chế độ này cũng không tạo đủ sự linh hoạt cho nguồn cung tiền tệ và chính sách tài khóa.

Tham khảo ngay  8 Kênh Đầu Tư Tài Chính Ngắn Hạn Hay Ngắn Hạn Là Tốt Nhất, Các Khoản Đầu Tư Ngắn Hạn

Trong khủng hoảng kinh tế, chính chế độ bản vị vàng trở thành cái cùm kìm hãm chính phủ và ngân hàng Trung Ương trong việc tìm ra chính sách để ngăn chặn khủng hoảng.

Ngoài ram những quốc gia khan hiếm vàng bị hạn chế cung ứng vàng gây ra việc kìm hãm phát triển kinh tế. Đặc biệt thực tiễn là vàng hiện tại không được phân phối theo sức mạnh kinh tế, như Nhật Bản là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, lại có dự trữ vàng ít hơn rất nhiều so với cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế này.

Hơn nữa quốc gia thâm hụt cán cân kinh tế phải trải qua thời kì đình trệ, quốc gia có thặng dư cán cân kinh tế phải trải qua thời kì lạm phát trong khi chế độ kim bản vị cũng không có khả năng tạo thêm vàng để khôi phục nền kinh tế.

4. Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng

4.1 Vàng và cuộc đại suy thoái

Từ năm 1879, Mỹ đã áp dụng chế độ bản vị vàng và lúc đó đồng USD rất ổn định và kinh tế phát triển tốt. Tuy nhiên Chiến tranh thế giới thứ nhất là dấu mốc đầu tiên và quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng. Khi đó Hoa Kỳ và các nước châu Âu đã đình chỉ bản vị vàng để họ có thể in đủ tiền chi trả cho việc tham gia quân sự của mình.

Sau chiến tranh, các quốc gia nhận ra rằng họ không cần phải ràng buộc tiền tệ của mình với vàng, và thực tế điều đó có thể gây hại cho nền kinh tế thế giới. Đến năm 1919 các quốc gia bao gồm cả Hoa Kỳ đã nhanh chóng quay trở lại chế độ bản vị vàng đã sửa đổi sau chiến tranh. Nhưng bản vị vàng hối đoái này đã gây ra tình trạng giảm phát và thất nghiệp tràn lan trong nền kinh tế thế giới.

Đến năm 1929 xảy ra đại suy thoái, các nước bắt đầu rục rịch chấm dứt bản vị vàng hàng loạt vào những năm 1930. Cụ thế trong đại suy thoái ở Mỹ, vì vướng chế độ “bản vị vàng” mà chính phủ và Cục Dự Trữ Liên Bang không thể dễ dàng kiểm soát khủng hoảng được. Suốt 4 năm chính phủ Hoa Kỳ lúc đó cứ loay hoay mà không có cách nào khả dĩ để dừng cơn đại suy thoái được. Đến năm 1931, Vương quốc Anh đã từ bỏ bản vị vàng và chỉ đến ngày 5 tháng 6 năm 1933 khi cuộc Đại suy thoái đạt đến đỉnh điểm tổng thống Franklin D. Roosevelt sau khi nhậm chức đã cho bãi bỏ chế độ bản vị vàng.

Sau khi chế độ bản vị vàng bị bãi bỏ thì chính phủ Mỹ và Cục Dự Trữ Liên Bang như được cởi bỏ xiềng xích để đưa ra chính sách tài khóa hợp lý để kết thúc thời kỳ đại suy thoái sau đó.

Xem thêm: Làm Thế Nào Để Rút Tiền Từ Paypal Về Vietcombank Như Thế Nào?

4.2 Thoả thuận Bretton Woods năm 1944

3 vấn đề quan trọng nhất mà hội nghị này bàn là: thành lập Ngân Hàng Thế Giới (WB); thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF); và các nước quay lại chế độ bản vị vàng với quy định 35 USD/1ounce vàng. Cũng vì thế, chế độ bản vị vàng này được hồi sinh để giữ ổn định cho đồng USD.

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button